Thứ Năm, 31 tháng 1, 2013

Miễn tối đa 250.000 đồng/tháng cho thuế thu nhập cá nhân

Ngay sau khi Quốc hội ban hành nghị quyết về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, ngày 22/6 Bộ Tài chính cho biết khoảng 70% số người đang nộp thuế thu nhập cá nhân (TNCN) ở bậc 1 sẽ được miễn thuế TNCN trong 6 tháng cuối năm.

Bộ Tài chính ước tính có khoảng 2,8 triệu người có thu nhập từ tiền công tiền lương và kinh doanh được hưởng chính sách này. Theo đó, người có thu nhập chịu thuế dưới 5 triệu đồng/tháng sẽ được miễn thuế từ tháng 7 đến hết tháng 12.
Nghĩa là sau khi giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế là 4 triệu đồng/ người/tháng, giảm trừ gia cảnh cho mỗi người phụ thuộc là 1,6 triệu đồng/tháng mà phần thu nhập còn lại dưới 5 triệu đồng thì được miễn thuế.

Bộ Tài chính cũng cho biết thêm với chính sách trên sẽ làm ngân sách giảm thu khoảng 2.000 tỉ đồng. Song sẽ không có tác động đến ngân sách quá lớn vì số người được miễn thuế chỉ đóng góp 10% số tiền thu được từ thuế TNCN.
Cụ thể, người nộp thuế thuộc diện được miễn thuế 6 tháng tới là: người độc thân có thu nhập dưới 9 triệu đồng/tháng, người nộp thuế nuôi một người phụ thuộc có thu nhập dưới 10,6 triệu đồng/tháng, người nộp thuế có thu nhập dưới 12,2 triệu đồng/tháng khi có hai người phụ thuộc...
Là chuyên gia về thuế TNCN, bà Nguyễn Thị Cúc - Chủ tịch Hội Tư vấn thuế Việt Nam cho rằng, chính sách đã hỗ trợ nhắm đúng đối tượng đang thật sự khó khăn.
Với mức thuế suất phải nộp ở bậc 1 là 5% thì số tiền mà một người được miễn tối đa là 250.000 đồng/tháng. Còn những người đang có thu nhập chịu thuế trên 5 triệu đồng/tháng thì không được hưởng chính sách này, tức vẫn phải nộp theo quy định tại biểu thuế lũy tiến từng phần.
Cùng chung quan điểm, ông Cao Sĩ Kiêm - đại biểu Quốc hội - cho biết theo yêu cầu của Quốc hội, Chính phủ đã trình một số phương án. Sau khi cân nhắc, Quốc hội đã lựa chọn phương án miễn thuế TNCN cho những người có thu nhập từ tiền công tiền lương và từ kinh doanh mà đang nộp thuế ở bậc 1.
Về phương án này, ông Cao Sĩ Kiêm nhận định: “Chính sách miễn thuế TNCN là mũi tên bắn trúng hai đích. Bởi không chỉ chia sẻ khó khăn, việc miễn thuế cho một số trường hợp cũng tác động tích cực rất lớn đến thị trường. Bởi chính sách này góp phần khuyến khích sức mua, kích cầu thị trường trong bối cảnh sức mua giảm sút, hàng hóa ứ đọng... Hơn nữa, lạm phát của Việt Nam luôn tăng cao mấy năm gần đây đã gây khó khăn đến đời sống người dân nói chung, trong đó có người nộp thuế. Chính vì vậy, miễn thuế là hết sức cần thiết.
Tuy nhiên, bà Nguyễn Thị Cúc băn khoăn là người có thu nhập chịu thuế trên mức 5 triệu đồng một chút, như 5,1 triệu đồng/tháng lại không được miễn thuế trong đợt này. Đặc biệt những cá nhân nộp thuế đang có người phụ thuộc, như đang nuôi hai con ăn học mà chỉ trông vào đồng lương hằng tháng là cực kỳ khó khăn. Do vậy, đây cũng là những đối tượng cần phải được hỗ trợ trong bối cảnh giá cả tăng cao, ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của người dân như hiện nay.

Theo Tuổi trẻ

Các nguyên tắc tổ chức trong hệ thống kế toán ngân sách nhà nước


Trên thế giới có nhiều mô hình tổ chức bộ máy kế toán ngân sách nhà nước khác nhau phù hợp với đặc điểm và tập quán của từng quốc gia.
Vì vậy, việc tổ chức hệ thống kế toán là xác định vị trí và trách nhiệm của các đối tượng tham gia vào việc chấp hành các nghiệp vụ tài chính nhà nước, là một trong những điểm then chốt nhất trong quá trình đổi mới và hoàn thiện hệ thống kế toán ngân sách nhà nước hiện nay ở VN.
Đối với nguyên tắc bất kiêm nhiệm giữa người ra quyết định thực hiện nghiệp vụ tài chính nhà nước và người chấp hành quyết định đó có nhiều ưu điểm và có thể thực hiện được vì những lý do sau:
Một là: Về mặt kỹ thuật, nguyên tắc này cho phép việc phân công, chia sẻ công việc trong việc chấp hành nghiệp vụ tài chính và chính nhờ sự phân công ấy tạo nên hai tác nhân độc lập để có thể kiểm soát lẫn nhau trong quá trình thực hiện.
Hai là: Cơ quan ra quyết định sẽ không phải tổ chức công việc kế toán, ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh nên có thể tập trung và thực hiện công tác chuyên môn để lựa chọn quyết định chi tiêu hợp lý, hiệu quả và tiết kiệm hơn.
Ba là: Cơ quan chuyên môn trong việc tổ chức hạch toán kế toán các nghiệp vụ kinh tế có trách nhiệm thực hiện thu, chi và phản ánh trung thực các nghiệp vụ tài chính theo yêu cầu của cơ quan ra quyết định; kiểm tra các quyết định tài chính trên cơ sở quy định của pháp luật tài chính hiện hành trước khi thực hiện quyết định đồng thời lập và cung cấp các báo cáo tài chính một cách khách quan cho các đơn vị sử dụng thông tin thu, chi ngân sách nhà nước.
Bốn là: Trong điều kiện thực tế của VN, do ý thức chấp hành luật pháp còn hạn chế, các chế tài kỷ luật trong lĩnh vực tài chính còn chưa nghiêm, tình trạng thực hiện chi tiêu và tập trung các khoản thu của ngân sách vượt ra ngoài khuôn khổ của chế độ, tiêu chuẩn, định mức cho phép còn diễn ra phổ biến thì việc tăng cường kiểm soát và quản lý tập trung vẫn là một yêu cầu mang tính nguyên tắc. Việc phân cấp tổ chức công tác kế toán đồng thời với chủ trương phân cấp quản lý, giao quyền nhiều hơn cùng với tăng cường trách nhiệm của các đơn vị sử dụng ngân sách theo xu hướng hiện nay mang lại hiệu quả cao trong công tác quản lý tài chính nói chung và trong công tác kế toán ngân sách nói riêng.
Thực tế hiện nay, về mặt tổ chức kế toán ngân sách khi phân cấp chúng ta áp dụng hình thức kế toán tập trung và kế toán phân tán thì có thể vẫn duy trì kế toán ở các đơn vị hành chính sự nghiệp song cán bộ và bộ máy kế toán ở các đơn vị nên độc lập với thủ trưởng của đơn vị nhưng trực thuộc cơ quan kế toán của Nhà nước (không phân cấp tổ chức). Chức năng kế toán này giao cho Kho bạc Nhà nước đảm nhiệm như hiện nay là hợp lý cả trên phương diện kiểm soát, thực hiện các nghiệp vụ tài chính nhà nước và phương diện về điều kiện vật chất để tổ chức hạch toán kế toán.
Ngoài ra, trong tổ chức bộ máy kế toán nhà nước là phân biệt kế toán của các cơ quan hành chính và kế toán của các đơn vị sự nghiệp. Đối với các cơ quan hành chính thuần túy, nguyên tắc này có thể thực hiện kể cả trong điều kiện phải phân cấp về mặt kỹ thuật. Riêng đối với các đơn vị sự nghiệp và nhất là các đơn vị sự nghiệp tự cân đối thu chi, có thể tách kế toán của các đơn vị này ra khỏi hệ thống kế toán nhà nước và có thể áp dụng như kế toán doanh nghiệp.
Nguyên tắc không kiêm nhiệm liên quan mật thiết đến tổ chức bộ máy kế toán nhà nước. Theo đó, việc bất kiêm nhiệm giữa người ra quyết định tài chính và kế toán sẽ dẫn đến việc hình thành một cơ quan kế toán tập trung, thống nhất. Lợi ích của kế toán tập trung thì có nhiều và với điều kiện thực tế của VN, kế toán tập trung sẽ là mô hình tổ chức kế toán mang tính nguyên tắc. Bên cạnh đó, cần phải thừa nhận việc Nhà nước ngày càng phân cấp và phân quyền quản lý tài chính sâu hơn, rộng hơn. Điều đó đòi hỏi kế toán nhà nước cần có những thay đổi trong tổ chức bộ máy. Kế toán các đơn vị hành chính thuần túy vẫn có thể thực hiện theo nguyên tắc kế toán tập trung và nguyên tắc bất kiêm nhiệm nhưng đối với các đơn vị sự nghiệp, việc tổ chức kế toán phân tán ở các đơn vị này sẽ ngày càng hình thành rõ nét cùng với xu thế phân cấp quản lý các dịch vụ công.
Chúng ta nên phân biệt và áp dụng hai nguyên tắc là kế toán ngân sách theo phương pháp tiền mặt và kế toán tài sản theo phương pháp dồn tích. Vấn đề này không chỉ mang tính kỹ thuật mà còn liên quan chặt chẽ tới tổ chức hệ thống kế toán nhà nước.
Một là: Đối với kế toán ngân sách, mặc dù hiện nay việc phân cấp quản lý ngân sách nhà nước đã ngày càng mở rộng, song đặc điểm quản lý ngân sách nhà nước vẫn mang tính tập trung khá rõ nét. Điều này thể hiện ở việc chính quyền cấp trên vẫn nắm quyền kiểm soát và ảnh hưởng tới ngân sách chính quyền cấp dưới và cụ thể hơn là tính chất lồng ghép ngân sách đã được quy định trong Thông tư số 59/2004/TT-BTC hướng dẫn Nghị định số 60/2003/NĐ-TTg hướng dẫn chi tiết thi hành Luật ngân sách nhà nước.
Hiện nay, ngân sách lồng ghép như vậy nhưng nhu cầu thông tin về ngân sách ở mỗi cấp chính quyền lại khác nhau. Thường tại từng cấp ngân sách, nhu cầu thông tin đặt ra rất chi tiết nhưng ở cơ quan tài chính cấp trên, thông tin chi tiết về ngân sách cấp dưới không phải bao giờ cũng cần thiết. Đây là lý do cần kết hợp tổ chức kế toán tập trung và tổ chức kế toán phân tán trong phân hệ kế toán ngân sách. Cần xác định thông tin gì cần tập trung lên ngân sách cấp trên, thông tin gì chỉ mang tính quản lý, điều hành tại từng cấp ngân sách và thông tin gì cần cho các đơn vị sử dụng ngân sách.
Hai là: Đối với kế toán tài sản theo nguyên tắc dồn tích thì đây là loại kế toán có nhiệm vụ phản ánh đầy đủ tình hình tài sản nợ, tài sản có của một đơn vị kế toán; mặt khác mỗi đơn vị kế toán ra đời lại xuất phát từ yêu cầu phân cấp quản lý, vì thế việc tổ chức hệ thống kế toán này phải kết hợp được nhu cầu thông tin chung đáp ứng yêu cầu quản lý vĩ mô của Nhà nước, đồng thời phải đáp ứng được yêu cầu quản lý cụ thể của từng đơn vị kế toán
Theo TapChiKeToan

Kế toán tăng giảm TSCĐ vô hình-HCSN


Trong bài viết này, chúng tôi xin gửi tới quý bạn đọc các Phương pháp kế toán đối với nghiệp vụ tăng giảm tài sản cố định vô hình trong doanh nghiệp.
A. Tài khoản sử dụng :

TK 213 – TSCĐ vô hình: Tài khoản này phản ánh giá trị hiện có và tình hình biến động giá trị về các loại TSCĐ vô hình của đơn vị theo NG.

Nội dung và kết cấu TK 213 – TSCĐ vô hình như sau:

Bên Nợ : Nguyên giá TSCĐ vô hình tăng

Bên Có : Nguyên giá TSCĐ vô hình giảm

Số dư bên Nợ : Nguyên giá TSCĐ vô hình hiện có

TK 213 không quy định tài khoản cấp 2.

Một số quy định hạch toán vào tài khoản 213:

- Toàn bộ chi phí thực tế phát sinh liên quan tới TSCĐ vô hình, trong quá trình hình thành, trước hết được tập hợp vào tài khoản 241 – XDCB dở dang. Khi kết thúc quá trình đầu tư phải xác định tổng chi phí thực tế đầu tư theo từng đối tượng tập hợp chi phí (nguyên giá từng TSCĐ vô hình) ghi tăng nguyên giá TSCĐ vô hình trên TK 213.

- TSCĐ vô hình cũng như TSCĐ hữu hình được theo dõi chi tiết theo từng đối tượng ghi TSCĐ trong sổ TSCĐ.

B. Phương pháp kế toán một số nghiệp vụ kinh tế chủ yếu phát sinh.

* TSCĐ vô hình mua ngoài dùng cho hoạt động HCSN.

- Khi mua TSCĐ về, căn cứ vào chứng từ gốc liên quan, ghi

Nợ TK 213 – TSCĐ vô hình
Có TK 111, 112 – Cho mua trực tiếp
Có TK 461, 462 – Rút hạn mức kinh phí mua.

Đồng thời ghi Có TK 008 hoặc 009 

- Căn cứ vào nguồn kinh phí mua sắm TSCĐ để ghi tăng nguồn kinh phí đã hình thành TSCĐ.

Nợ TK 661 – Chi hoạt động (bằng nguồn kinh phí hoạt động)
Nợ TK 662 – Chi dự án (bằng nguồn kinh phí dự án)
Nợ TK 441 – Nguồn kinh phí đầu tư XDCB
Nợ TK 431 – Quỹ cơ quan
Có TK 466 – Nguồn kinh phí đã hình thành TSCĐ

* Đối với TSCĐ mua sắm dùng cho hoạt động SXKD, hàng hoá dịch vụ chịu thuế GTGT tính theo phương pháp khấu trừ thuế thì giá trị TSCĐ mua vào là giá mua không có thuế, kế toán ghi.

Nợ TK 213 - (TSCĐ dùng vào hoạt động SXKD)
Nợ TK 3113 – Thuế GTGT được khấu trừ
Có TK 111, 112, 331 – (Tổng giá thanh toán)

- Nếu TSCĐ mua sắm dùng cho hoạt động SXKD thuộc diện không chịu thuế hoặc chịu thuế theo phương pháp trực tiếp, thì giá trị TSCĐ mua vào là giá mua có thuế, kế toán ghi 

Nợ TK 213 – Nguyên giá
Có TK 111, 112, 331 – Tổng giá thanh toán

- Với cả 2 trường hợp trên đều phải xác định nguồn vốn mua sắm để ghi tăng nguồn vốn kinh doanh, ghi

Nợ TK 441 – Nguồn vốn đầu tư XDCB
Nợ TK 431 – Quỹ cơ quan
Có TK 411 – Nguồn vốn kinh doanh

- Trường hợp giá trị TSCĐ vô hình là các chi phí hình thành trong một qúa trình như: lập trình phần mềm máy tính, bằng phát minh sáng chế… :

+ Tập hợp chi phí khi phát sinh

Nợ TK 241 – XDCB dở dang
Có TK 111, 112, 331, 312, 152…

+ Khi kết thúc quá trình đầu tư, kế toán phải tính toàn chính xác số chi phí thực tế đã chi để ghi:

Nợ TK 213 – TSCĐ vô hình
Có TK 241 – XDCB dở dang

+ Căn cứ vào nguồn hình thành TSCĐ để ghi tăng nguồn kinh phí đã hình thành TSCĐ như các trường hợp đã nêu trên.

- Các nghiệp vụ giảm TSCĐ vô hình được định khoản tương tự như các định khoản giảm TSCĐ hữu hình.
Theo TCKTO

Kế toán nhập, xuất Sản phẩm - Hàng hóa(HCSN)


Để hạch toán tổng hợp sản phẩm, hàng hoá kế toán sử dụng tài khoản 155 - Sản phẩm, hàng hoá.
TK 155

Tài khoản này phản ảnh số hiện có và biến động tăng giảm các loại sản phẩm hàng hoá của đơn vị HCSN có hoạt động SXKD, thương mại dịch vụ hoặc có hoạt động nghiên cứu thí nghiệm có sản phẩm tận thu, TK 155 - sản phẩm, hàng hoá - chỉ phản ảnh số sản phẩm, hàng hoá lưu chuyển qua kho của đơn vị.


* Nội dung, kết cấu TK: 155 - sản phẩm, hàng hoá như sau :

Bên Nợ : - Trị giá thực tế sản phẩm, hàng hoá nhập kho.

- Trị giá thực tế sản phẩm, hàng hoá thừa phát hiện khi kiểm kê.

Bên Có : - Trị giá thực tế của sản phẩm, hàng hoá xuất kho.

- Trị giá thực tế của sản phẩm, hàng hoá thiếu phát hiện khi kiểm kê.

Số dư bên Nợ - Trị giá thực tế của sản phẩm, hàng hoá tồn kho .


TK 155 có 2 tài khoản cấp 2

- TK 1551 - Sản phẩm - phản ảnh giá thực tế của số sản phẩm do đơn vị tự sản xuất ra để bán, để dùng nội bộ.

- TK 1556 - Hàng hoá - là TK phản ảnh tình hình hiện có, tình hình tăng giảm giá trị thực tế các loại hàng hoá đơn vị mua vào để bán ra.

Chú ý : Hàng hoá mua về nếu dùng cho nội bộ đơn vị thì không hạch toán vào TK 1556 mà được hạch toán vào TK 152 - Vật liệu, dụng cụ. 

Phương pháp kế toán các nghiệp vụ chủ yếu như sau :
- Nhập kho sản phẩm do bộ phận sản xuất tạo ra, sản phẩm thu được từ hoạt động chuyên môn, nghiên cứu, chế thử, thử nghiệm, kế toán ghi :

Nợ TK 155 (1551)
Có TK 631 - Chi hoạt động sản xuất kinh doanh
Có TK 661 - Chi hoạt động
Có TK 662 - Chi dự án.

- Khi mua hàng hoá dùng vào hoạt động SXKD hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thì trị giá hàng hoá nhập kho là giá chưa có thuế GTGT, kế toán ghi :

Nợ TK 155 (1556)
Nợ TK 631
Nợ TK 3113 - Thuế GTGT được khấu trừ
Có TK 111, 112, 331 (Tổng giá thanh toán).

- Khi mua hàng hoá dùng vào hoạt động SXKD hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT hoặc nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp, thì trị giá thực tế hàng hoá nhập kho là tổng giá thanh toán, kế toán ghi :

Nợ TK 155, 631
Có TK 111, 112, 331.

- Trị giá thực tế sản phẩm hàng hoá xuất kho để bán, để phục vụ cho mục đích XDCB, cho các hoạt động trong đơn vị, kế toán ghi :

Nợ TK 531 - Thu hoạt động sản xuất cung ứng dịch vụ
Nợ TK 661, 662, 241.
Có TK 155 - Sản phẩm, hàng hoá

- Trị giá thực tế của sản phẩm, hàng hoá thừa, thiếu khi kiểm kê, chưa xác định rõ nguyên nhân.

- Nếu thừa :

Nợ TK 155
Có TK 331 (3318)

- Nếu thiếu :

Nợ TK 311 (3118)
Có TK 155

Ví dụ : Có số liệu về sản phẩm, hàng hoá tháng báo cáo 6/N tại một đơn vị HCSN X như sau : (Đơn vị 1000đ).

- Số dư của TK 155 đầu tháng 6 gồm:

+ TK 1551 A: 120.000 (số lượng 300 cái x 400/cái)

+ TK 1556 C: 35.000 (số lượng 350 cái x 100/cái)

- Trong kỳ có các nghiệp vụ kinh tế sau phát sinh :

1. Ngày 5/6 sản xuất nhập kho sản phẩm A

Đợt 1 : 1000 đơn vị, giá thành đơn vị 450.

2. Ngày 8/6 nhập kho hàng hoá C mua bằng tiền mặt

Số lượng : 300, thành tiền 39.600, trong đó thuế GTGT 10%.

3. Ngày 10/6 xuất kho sản phẩm, hàng hoá bán cho công ty Y

Sản phẩm A : 350 cái, giá bán đơn vị cả thuế GTGT 10% là 550

Hàng hoá C : 450 cái, giá bán 74.250, trong đó thuế 6.750.

4. Ngày 15/6 sản xuất nhập kho sản phẩm A

Đợt 2 : 1200 đơn vị, giá thành đơn vi sản phẩn 420.

5. Ngày 18/6 xuất kho sản phẩm, hàng hoá bán cho công ty Z.

Hàng hoá C : 180 cái, giá bán chưa có thuế GTGT 10% là 170.

Sản phẩm A : 1400 cái, giá bán có thuế GTGT 10% cho 1.400 sản phẩm A là : 770.000

6. Ngày 20/6 rút tiền gửi kho bạc mua hàng hoá C về nhập kho với số lượng 250, tổng giá thanh toán 30.250, trong đó thuế GTGT 10%.

7. Ngày 25/6 xuất kho hàng hoá C phục vụ cho dự án 80 cái

Yêu cầu : 1. Định khoản kế toán

2. Phản ánh vào sơ đồ tài khoản

Biết rằng đơn vị thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, giá thực tế hàng xuất kho được tính theo phương pháp nhập trước xuất trước.
Giải

* Tính giá thực tế xuất kho.
Sản phẩm A

Tồn: 300 cái x 400 = 120.000

- 5/6 nhập: 1000 x 450 = 450.000
- 15/6 nhập: 1200 x 420 = 504.000
- Xuất 10/6 300 x 400 = 120.000
50 x 450 = 22.500

Tổng: 142.500

Xuất 18/6 : 950 x 450 = 427.500
450 x 420 = 189.000
Tổng: 616.500
Hàng hoá C

Tồn ĐK: 350 cái x 100 = 35.000

- 8/6 nhập: 300 x 120 = 36.000
- 20/6 nhập: 250 x 110 = 27.500
- Xuất 10/6: 350 x 100 = 35.000
100 x 120 = 12.000

Tổng xuất (10/6) = 47.000

- Xuất 18/6: 180 x 120 = 21.600
- Xuất 25/6: 20x 120 = 2.400
60 x 110 = 6.600

Tổng xuất (25/6) = 9.000
* Định khoản kế toán

1. Nợ TK 155 (1551) 450.000
Có TK 631 450.000

2. Nợ TK 155 (1556) 36.000
Nợ TK 311 (3113) 3.600
Có TK 111 39.600

3. a/ Nợ TK 511 (5118) 189.500 
Có TK 155 189.500
3.b/ Nợ TK 111 266.750 
Có TK 5118 242.500
Có TK 3331 24.250

4. Nợ TK 155 (1551) 504.000
Có TK 631 504.000

5. a/ Nợ TK 511 (5118) 638.100
Có TK 155 638.100

5. b/ Nợ TK 112 803.660
Có TK 511 (5118) 730.600
Có TK 3331 73.060

6. Nợ TK 155 (1556) 27.500
Nợ TK 311 (3113) 2.750
Có TK 112. 30.250

7. Nợ TK 662 9.000
Có TK 155 (1556) 9.000
Theo TCKTO

Thứ Tư, 30 tháng 1, 2013

Luật Thuế thu nhập DN “Gỡ” chưa hết "rối”


Năm 2009 là dấu mốc vô cùng quan trọng đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh nghiệp không chỉ "đau đầu" đối phó với khủng hoảng kinh tế, mà còn đối diện với sự thay đổi liên lục trong chính sách thuế. Cùng với sự thay đổi của các luật thuế, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) cũng có những thay đổi lớn đối với doanh nghiệp.

Thu nhập khác không được hưởng ưu đãi thuế TNDN
Luật Thuế TNDN ra đời từ cải cách thuế bước 2 diễn ra năm 1999. Từ đó đến nay đã có nhiều sửa đổi, nhưng vẫn luôn đề cao chính sách thu hút đầu tư bằng các chính sách ưu đãi về thuế. Theo đó, trừ những thu nhập từ hoạt động đặc thù (như chuyển nhượng vốn và chuyển nhượng bất động sản), phải hạch toán riêng không được hưởng các ưu đãi về thuế TNDN. Các thu nhập khác còn lại phát sinh trong quá trình sản xuất - kinh doanh đều hòa chung vào kết quả hoạt động sản xuất - kinh doanh để được hưởng ưu đãi theo quy định.

Tuy nhiên, theo luật thuế mới, tất các khoản thu nhập khác đều không được hưởng ưu đãi về thuế. Thông tư số 130/2008/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Luật Thuế TNDN định nghĩa thu nhập khác là các khoản thu nhập chịu thuế trong kỳ tính thuế, mà khoản thu nhập này không thuộc ngành nghề lĩnh vực có trong đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp.

Thông tư 130 cũng đưa ra danh mục các loại thu nhập khác, trong đó bao gồm thu nhập từ lãi tiền gửi, lãi cho vay vốn, chênh lệch tỷ giá, thu nhập từ thanh lý tài sản, hay các khoản nợ khó đòi đã xóa nay đòi được, hoạt động sản xuất - kinh doanh của những năm trước bị bỏ sót do doanh nghiệp phát hiện ra... Trên thực tế, những khoản thu nhập này là những thu nhập tất yếu phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khi hoạt động trong phạm vi lĩnh vực kinh doanh được cấp phép. Vì vậy, không thể coi những khoản thu nhập khác này là những thu nhập không thuộc ngành nghề lĩnh vực có trong đăng ký kinh doanh.

Thêm vào đó, tương ứng với những thu nhập này, doanh nghiệp cũng có những chi phí tương tự. Ví dụ, đối với khoản thu nhập từ lãi tiền gửi, lãi cho vay vốn, thì doanh nghiệp cũng phát sinh chi phí trả lãi tiền vay. Hay đối với chênh lệch tỷ giá phát sinh trong kỳ, tương ứng với khoản thu nhập từ lãi về chênh lệch tỷ giá là những khoản lỗ do chênh lệch tỷ giá phát sinh trong kỳ. Như vậy, có thể thấy rất rõ sự bất hợp lý là đối với cùng một hoạt động tương tự, nếu phát sinh chi phí, hoặc thua lỗ thì được hạch toán để xác định giảm thu nhập hưởng ưu đãi thuế, trong khi phần lãi (thu nhập) lại không được áp dụng những ưu đãi đó (phải tính thuế TNDN theo mức thuế suất phổ thông ngay trong kỳ phát sinh thu nhập).

Công văn 7250/BTC-TCT "gỡ" chưa hết "rối"
Sau khi Luật Thuế TNDN, Nghị định và Thông tư hướng dẫn được ban hành, hầu hết doanh nghiệp đều băn khoăn với quy định nêu trên và đã có ý kiến phản ánh lên Tổng cục Thuế và Bộ Tài chính. Để tháo gỡ những vướng mắc này, Bộ Tài chính đã ban hành Công văn số 7250/BTC-TCT ngày7/6/2010. Công văn này hướng dẫn cách xác định một số khoản thu nhập khác như thu nhập từ lãi tiền gửi, lãi cho vay vốn, chênh lệch tỷ giá, thu nhập từ thanh lý tài sản, thu nhập về tiêu thụ phế liệu, phế phẩm, thu nhập từ hoàn nhập các khoản dự phòng.

Theo đó, khi thực hiện quyết toán thuế, phần lãi từ các hoạt động trên có thể bù trừ với phần chi phí tương ứng của hoạt động đó, hoặc việc xử lý hoàn nhập dự phòng sẽ được thực hiện theo Thông tư 228. Cách xác định đó cũng đồng nghĩa với việc một phần hoặc toàn bộ giá trị các khoản thu nhập này đã được ghi nhận giảm chi phí tương ứng khi xác định thu nhập chịu thuế và được hưởng các ưu đãi thuế. Điều này dù chưa thực sự làm thỏa đáng những băn khoăn của các doanh nghiệp, nhưng đã phản ánh sự nỗ lực của Bộ Tài chính, đặc biệt là ngành thuế trong việc tháo gỡ các vướng mắc cho doanh nghiệp, thực hiện chính sách "nuôi dưỡng nguồn thu" cho ngân sách nhà nước.

Tuy nhiên, ngoài những khoản thu nhập được hướng dẫn trong Công văn 7250/BTC-TCT nêu trên, còn nhiều khoản thu nhập khác chưa được đề cập như khoản nợ khó đòi đã xóa nay đòi được, khoản nợ phải trả không xác định được chủ nợ, thu nhập từ hoat động sản xuất - kinh doanh của những năm trước bị bỏ sót, tiền bồi thường do phạt vi phạm hợp đồng... Mặc dù các khoản thu nhập này không thường xuyên phát sinh, nhưng bản chất các khoản thu nhập đó không phải thuộc ngành nghề lĩnh vực khác đối với hầu hết doanh nghiệp. Liệu doanh nghiệp có nên tiếp tục mong đợi một công văn tương tự hướng dẫn việc thực hiện đối với các khoản thu nhập khác còn lại?

Thêm vào đó, trong khi Công văn 7250/BTC-TCT chưa giải quyết hết những khúc mắc của doanh nghiệp, thì bản thân nó lại phát sinh một số điểm chưa phù hợp như sau.

- Thứ nhất, bù trừ lãi lỗ giữa các hoạt động sản xuất - kinh doanh, quy định chưa thống nhất.

Thông tư 130/2008/TT-BTC quy định trường hợp hoạt động kinh doanh được hưởng ưu đãi thuế bị lỗ, hoạt động kinh doanh không được hưởng ưu đãi có thu nhập (hoặc ngược lại), thì doanh nghiệp bù trừ vào thu nhập chịu thuế của các hoạt động kinh doanh có thu nhập do doanh nghiệp tự lựa chọn. Với quy định này, doanh nghiệp vẫn băn khoăn, liệu có thể tùy thuộc vào kế hoạch kinh doanh của mình mà lựa chọn có bù trừ hay không, hay bắt buộc phải thực hiện bù trừ, vì theo các quy định trước đây, doanh nghiệp được lựa chọn thực hiện bù trừ?

Công văn 7250/BTC-TCT với hướng dẫn và ví dụ cụ thể đã khẳng định rằng, việc thực hiện bù trừ là bắt buộc đối với doanh nghiệp. Trong khi đó, Luật thuế TNDN hiện tại quy định các lĩnh vực hoạt động kinh doanh áp dụng các mức thuế khác nhau thì phải hạch toán riêng để xác định chính xác thu nhập chịu thuế.

Theo đó, trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh của cả năm tài chính, doanh nghiệp thực hiện nguyên tắc hạch toán riêng từng hoạt động kinh doanh có mức thuế suất khác nhau. Nhưng đến cuối năm, khi thực hiện quyết toán thuế, nếu có hoạt động kinh doanh lãi và hoạt động lỗ lại nhập các khoản thu nhập này vào để xác định mức thu nhập chịu thuế và mức thuế suất áp dụng.

Bà Nguyễn Hồng Nhung là Chủ nhiệm cấp cao Dịch vụ thuế và tư vấn của Ernst & Young tại Hà Nội. Bà Nhung có nhiều năm kinh nghiệm hỗ trợ, tư vấn khách hàng là các công ty đa quốc gia, tập đoàn kinh tế, DN trong và ngoài nước trong lĩnh vực vận tải, bất động sản, sản xuất và dịch vụ tài chính, đưa ra các giải pháp thuế giúp khách hàng tuân thủ quy định về thuế một cách hiệu quả. Ngoài ra, bà Nhung có kinh nghiệm sâu sắc trong tư vấn thuế đối với hoạt động đầu tư.

Như vậy, có thể thấy, quy định này đã làm mất đi ý nghĩa của nguyên tắc hạch toán riêng, đồng thời tạo ra sự mâu thuẫn giữa các quy định trong cùng một đạo luật.

- Thứ hai, quy định về thời gian chuyển lỗ - doanh nghiệp mất quyền chủ động trong việc lập kế hoạch kinh doanh.

Ngoài hướng dẫn về việc bù trừ lãi lỗ, Công văn 7250/BTC-TCTcòn hướng dẫn về thời gian chuyển lỗ. Theo công văn này, doanh nghiệp có các khoản lỗ phát sinh từ năm 2009 trở đi thì phải chuyển toàn bộ và liên tục số lỗ vào thu nhập chịu thuế của những năm tiếp theo, trong thời gian không quá 5 năm.

Trước đây, doanh nghiệp được phép tự quyết định số lỗ sẽ chuyển và thời gian chuyển lỗ đảm bảo không quá 5 năm kể từ năm phát sinh lỗ. Quy định này giúp doanh nghiệp chủ động lập kế hoạch chuyển lỗ sao cho phù hợp với kế hoạch kinh doanh để đạt hiệu quả cao nhất. Với quy định mới, điều này không phù hợp với xu hướng dành quyền chủ động trong kinh doanh của doanh nghiệp.

Để kiểm soát tốt hơn việc chuyển lỗ của doanh nghiệp, thiết nghĩ, nên để cho doanh nghiệp chủ động thực hiện chuyển lỗ sao cho không bị vượt quá thời hạn 5 năm kể từ năm phát sinh lỗ. Và việc chuyển lỗ của doanh nghiệp nếu đã kê khai với cơ quan thuế thì không được phép điều chỉnh lại. Quy định như vậy sẽ buộc doanh nghiệp phải nghiêm túc và có trách nhiệm hơn với việc lập kế hoạch chuyển lỗ nói riêng, kế hoạch kinh doanh nói chung của doanh nghiệp mình, nhằm đảm bảo hoạt động kinh doanh hiệu quả và lành mạnh.

Sau một kỳ quyết toán vất vả vì luật thuế thay đổi, hiện nay, với việc ban hành Công văn 7250/BTC-TCT, các doanh nghiệp lại lục tục điều chỉnh lại tờ khai quyết toán thế thu nhập doanh nghiệp theo hướng dẫn mới. Hy vọng, trong năm 2010, các văn bản hướng dẫn về thuế nói chung và đối với thuế TNDN nói riêng sẽ được hoàn thiện, tạo môi trường thuế ổn định và thuận lợi, giúp cho các doanh nghiệp yên tâm kinh doanh.

Nguyễn Hồng Nhung
(Theo Tinnhanhchungkhoan.vn)

Thứ Hai, 28 tháng 1, 2013

Các lỗi thường gặp khi kê khai thuế qua mạn mà kế toán cần biết


Các lỗi thường gặp khi kê khai thuế qua mạng mà các kế toán viên cần biết để có thể khắc phục:
1. Khi nhấn chuột vào nút chọn  tệp, thấy góc bên trái của trình duyệt xuất hiện thông báo " Error on page", và không thấy hiện ra của sổ chọn tệp tờ khai
2. Khi nhấn nút ký điện tử không thấy xuất hiện màn hình ký điện tử
3. Khi ký điện tử, mặc dù đã nhập đúng số PIN nhưng vẫn xuất hiện thông báo "Số PIN không đúng"
4. Sau khi thực hiện ký điện tử thành công, nhấn nút "Xác nhận" không thấy chuyển sang bước tiếp theo
5. Sau khi cài đặt thiết bị chứng thư số thành công. Khi thực hiện ký điện tử sau đó thì xuất hiện thông báo "Thiết bị chứng thư số chưa được cài đặt"
6. Khi gửi các tờ khai dạng word hoặc excel bị gặp thông báo lỗi như sau: Package should contain a content type part [M1.13]
7. Sau khi up tờ khai thực hiện ký điện tử hệ thông thông báo: "sai mã pin hoặc không tìm thấy thiết bị"

Cách khắc phục:

1. - Đăng nhập vào trang kekhaithue.gdt.gov.vn, trên trình duyệt Internet Explore, chọn Tool -> Manage Adds on. TÌm và disable Java-Plugin, Sun Java Console. Tắt tất cả các trang web sử cụng trình duyệt Internet Explorer. Sau đó mở lại Internet Explorer, vào lại phần Manage Adds-On và enable Java-Plugin, Sun Java Console. 

- Nếu sau khi thực hiện các thao tác trên mà ứng dụng vẫn không thể chọn được tệp tờ khai, hãy gỡ bỏ môi trường Java Plug-in và thực hiện cài đặt lại
2. Chưa cài đặt môi trường java cho trình duyệt. Hãy cài đặt môi trường java theo hướng dẫn
3. Khi đổi số PIN của thiết bị người dùng để số PIN nhiều hơn 12 ký tự. Hãy đổi lại số PIN với độ dài từ 8 đến 12 ký tự
4. Khi nhấn nút "Xác nhận" tệp tờ khai sẽ được upload lên hệ thống iHTKK. Thời gian upload có thể từ 15 đến 20 phút nếu tệp tờ khai có dung lượng lớn. Hãy đợi cho tệp tờ khai được upload xong
5. Máy tính không được đăng nhập bằng tài khoản có quyền truy cập thiết bị chứng thư số. Hãy đăng nhập bằng tài khoản có quyền truy cập thiết bị (ví dụ như tài khoản Administrator)
6. Vào Start -> Settings -> Control Panel -> Click vào Java -> Chọn General -> Chọn Settings... -> Delete Files... -> Nhấn nút OK.
7. Nếu mã pin đã nhập đúng vui lòng gỡ token pki sau đó cài lại, vào trang kekhaithue.gdt.gov.vn nhấn F5 sau đó thực hiện ký điện tử lại.

Ôtô, xe máy có thể phải nộp phí sử dụng đường bộ từ 2013

Bộ Tài chính đang hoàn thiện dự thảo thông tư hướng dẫn chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí sử dụng đường bộ theo đầu phương tiện.

Ôtô, xe máy có thể phải nộp phí sử dụng đường bộ từ 2013
















Trong đó, ôtô là loại phương tiện phải chịu phí cao nhất, với mức khung từ 2,09 triệu đồng đến 16,76 triệu đồng/xe/năm.
QA
Xe máy được chia theo 2 nhóm dung tích xi-lanh. Loại dung tích dưới 70 cm3 có mức phí 80.000 - 100.000 đồng/xe/năm; loại dung tích từ 70 - 100 cm3 có mức phí 100.000 - 120.000 đồng/xe/năm; loại dung tích từ 100 - 175 cm3 có mức phí 120.000 - 150.000 đồng/xe/năm; và loại dung tích trên 175 cm3 có mức phí 150.000 - 180.000 đồng/xe/năm.

Căn cứ khung trên, hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương sẽ quyết định các mức thu cụ thể sao cho phù hợp nhất với điều kiện của địa phương mình.

Đây là loại phí được thu trên đầu phương tiện, tính theo năm và theo kỳ đăng kiểm. Thông tư quy định, tại mỗi kỳ đăng kiểm, các chủ phương tiện sẽ nộp phí ngay tại cơ quan đăng kiểm.

Dự kiến các loại phí này sẽ bắt đầu được thu kể từ ngày 1/1/2013.

Trước đó, đầu tháng 3 năm nay, Chính phủ đã ban hành Nghị định 18/2012/NĐ-CP quy định về việc lập, quản lý và sử dụng quỹ bảo trì đường bộ, sau này gọi là phí sử dụng đường bộ.

Theo nghị định này, các loại phí sử dụng đường bộ sẽ bắt đầu được thu kể từ ngày 1/6/2012. Tuy nhiên, do điều kiện nền kinh tế khó khăn, loại phí này đã được hoãn thực hiện theo nội dung của nghị định.

NhómLoại ôtô chịu phíMức thu (nghìn đồng)
ThángNăm
1Xe dưới 10 chỗ, xe tải (kể cả xe 4 bánh gắn động cơ 1 xilanh, rơ-moóc và xe chuyên dụng trọng lượng toàn bộ dưới 4 tấn)1802.090
2Xe chở người từ 10 đến 24 chỗ; xe tải, rơ moóc và xe ôtô chuyên dùng có trọng lượng toàn bộ từ 4 tấn đến dưới 8,5 tấn; xe đầu kéo có trọng lượng bản thân dưới 8,5 tấn2703.140
3Xe chở người từ 25-40 chỗ; xe tải, rơ moóc và ôtô chuyên dùng có trọng lượng toàn bộ từ 8,5 tấn đến dưới 13 tấn; xe đầu kéo có trọng lượng bản thân từ 8,5 tấn trở lên3964.600
4Xe chở người từ 40 chỗ trở lên; xe tải, rơ moóc và ôtô chuyên dùng có trọng lượng toàn bộ từ 13 tấn đến dưới 19 tấn5906.860
5Xe tải, rơ moóc và xe ôtô chuyên dùng có trọng lượng toàn bộ từ 19 tấn đến dưới 27 tấn7208.380
6Xe tải, rơ moóc và xe ôtô chuyên dùng có trọng lượng toàn bộ từ 27 tấn trở lên1.44016.760
7Sơ mi rơ moóc có trọng lượng toàn bộ dưới 27 tấn7208.380
8Sơ mi rơ moóc có trọng lượng toàn bộ từ 27 tấn trở lên1.04412.100
Theo: vneconomy

Hướng dẫn quyết toán thuế tncn năm 2012


Ngày 15/1/2013, Tổng Cục Thuế đã ban hành công văn số 187/TCT-CNTT về việc hướng dẫn quyết toán thuế TNCN năm 2012, trong đó có một số nội dung liên quan đến việc nâng cấp các ứng dụng Hỗ trợ kê khai (HTKK), Khai thuế qua mạng (iHTKK), phần mềm hỗ trợ quyết toán thuế TNCN (QTTNCN) đáp ứng nghiệp vụ quyết toán thuế TNCN năm 2012.

Về đối tượng khai quyết toán thuế:
♦ Tổ chức, cá nhân trả thu nhập phải khấu trừ thuế không phân biệt có phát sinh khấu trừ hay không khấu trừ thuế.
♦ Cá nhân cư trú thực hiện quyết toán thuế thu nhập cá nhân nếu:
- Có số thuế phải nộp lớn hơn số thuế đã khấu trừ hoặc tạm nộp;
- Có yêu cầu hoàn số thuế nộp thừa hoặc bù trừ vào kỳ sau.
♦ Đối với cá nhân mua bán chứng khoán trong năm 2012, sau khi kết toán phần lãi chứng khoán với thuế suất 10% (tính theo thuế suất đã giảm 50%), nếu có chênh lệch thừa hoặc thiếu thuế thì làm hồ sơ quyết toán thuế TNCN.
♦ Đối với người nước ngoài khi kết thúc làm việc tại Việt Nam trước khi xuất cảnh. Trường hợp cá nhân là người nước ngoài kết thúc làm việc tại Việt Nam, đã thực hiện quyết toán thuế trước 31/12, sau đó cá nhân quay lại Việt Nam và làm việc đến hết năm đó thì cuối năm cá nhân thực hiện quyết toán thuế với thu nhập chịu thuế từ ngày 1/1 đến ngày 31/12.
Về việc uỷ quyền quyết toán thuế:
• Trường hợp cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công ký hợp đồng dài hạn (trên 3 tháng) duy nhất tại một nơi trong năm dương lịch nếu có yêu cầu thực hiện quyết toán thì có thể uỷ quyền quyết toán thuế cho cơ quan trả thu nhập quyết toán thay, kể cả trường hợp cá nhân làm việc chưa đủ 12 tháng trong năm nhưng có thu nhập duy nhất tại một nơi.
• Cá nhân đã được tổ chức, cá nhân trả thu nhập cấp chứng từ khấu trừ thuế (trừ trường hợp tổ chức, cá nhân trả thu nhập đã thu hồi và huỷ chứng từ khấu trừ thuế đã cấp cho cá nhân); cá nhân không ký hợp đồng lao động, hoặc ký hợp đồng lao động dưới 3 tháng;cá nhân ký hợp đồng cung cấp dịch vụ đã khấu trừ 10% hoặc 20% (kể cả trường hợp có thu nhập duy nhất tại một nơi) nếu có yêu cầu quyết toán thuế thu nhập cá nhân thì tự quyết toán, không uỷ quyền cho tổ chức, cá nhân trả thu nhập quyết toán thay.
Thời hạn nộp hồ sơ quyết toán: chậm nhất là ngày 1/4/2013.